Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc dưới chân núi Sam thuộc phường núi Sam, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang. Miếu Bà Chúa Xứ có rất nhiều truyền thuyết huyền bí xung quanh hoàn cảnh ra đời của ngôi miếu, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Châu Đốc, An Giang trước đây có tên là “vùng Thất Sơn”. Nhắc đến Châu Đốc thì không thể không nhắc đến chùa Bà Chúa Xứ nổi tiếng linh thiêng khắp cả nước. Án ngữ ngay cửa ngõ vào vùng Thất Sơn, đây là địa danh ẩn chứa nhiều điều kỳ bí.

Theo truyền thuyết, tượng phật bà Chúa Xứ là một pho tượng cổ rất thiêng nằm trên đỉnh núi Sam từ rất lâu. Thêm một điểm sẽ khiến du khách bất ngờ khi được biết là Tượng Bà Chúa Xứ thực ra là tượng nam được sách kỉ lục An Giang ghi nhận là pho tượng bằng đá sa thạch xưa nhất Việt Nam. Đáng tiếc một điểm là phần đầu của tượng hiện đang thờ tại miếu Bà không phải là nguyên gốc, mà được chế sau bằng loại đá khác với thân tượng.

Khoảng năm 1820 Quân Xiêm thường sang nước ta quấy nhiễu, cướp bóc. Mỗi khi giặc đến, người dân quanh vùng lại phải bồng bế nhau chốn chạy lên núi lánh nạn. Có lần quân giặc đuổi theo lên đến đỉnh núi Sam thì gặp tượng Bà. Chúng hì hục cậy ra, lấy dây buộc lại dùng đòn khiêng xuống núi để mang về xứ. Nhưng khi bọn chúng mới khiêng đi được một đoạn đường ngắn, lạ thay tượng Bà bỗng dưng nặng trĩu không thể nào nhấc lên được nữa. Khi đó, một tên trong bọn tức giận đập vào cốt tượng làm gãy một phần cánh tay bên trái và ngay tức khắc hắn bị Bà trừng phạt.

Theo lời của bà Ngoại mình kể lại xác nhận thì đúng là có chuyện đó, Tượng Bà bị mất một cánh tay. Khi còn khỏe Ngoại thường cùng phái đoàn đi hành hương có dịp ghé lại nơi đây. Đêm đến mọi người đều đã đi ngủ nhưng bà mình lại trằn trọc không ngủ được nên đi lên điện thờ ngồi chơi. Chánh điện ngày xưa không có khang trang như bây giờ nên ra vào rất dễ. Bà kể lúc đó cũng như có ai thôi thúc trong người, thì bà mình lại đến bên trái tượng vén áo choàng lên, thì quả thực là pho tượng thiếu mất một bên cánh tay. Về nhà kể lại thì mọi người bảo là vì Bà thấy có duyên nên mới để cho có cơ hội được thấy.

Theo nhân gian truyền miệng thì vị trí đặt tượng bà hiện nay cũng là do bà chọn. Khoảng 200 năm trước Bà thường hiện về xưng là Bà Chúa Xứ, dạy dân làng khiêng xuống núi lập miếu thờ cúng. Bà sẽ phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp quấy phá, thoát khỏi dịch bệnh hoành hành. Thấy vậy, dân làng họp nhau lên núi khiêng tượng về thờ cúng. Nhưng lạ thay, dù mấy chục thanh niên trai tráng hò nhau gắng sức vẫn không lay chuyến nổi tượng Bà. Trong lúc mọi người đang rất thất vọng, có ý định bỏ dở thì một cô gái trong làng bỗng dưng lên đồng cho biết : “Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng”. Dân làng làm theo lời dạy ấy và qủa đúng thật 9 cô gái đồng trinh khiêng tượng Bà đi xuống một cách nhẹ nhàng.

Bỗng nhiên khi đi đến chân núi thì tượng Bà trở nên nặng, không thể khiêng nổi thêm một bước nào nữa. Khi đó mọi người đã hiểu rằng, Bà đã chọn nơi đây để an vị nên đã không cố gắng di chuyển đi nữa mà lập miếu thờ cúng chỗ đó.

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam ban đầu được cất đơn sơ bằng tre, đất và đất. Về sau năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước. Năm 1962, ngôi miếu được tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội quý tế cho xây nới rộng nhà khách và làm hàng rào nhà chính điện của ngôi miếu. Năm 1972, ngôi miếu được tái thiết lớn và hoàn thành vào năm 1976, tạo nên dáng vẻ như hiện nay, và người thiết kế là hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng.

Hàng năm, cứ đến ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch thì chính quyền nơi đây tổ chức lễ hộ Vía Bà rất trang trọng. Lễ hội diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch với 5 nghi thức lễ khác nhau như:

Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.

Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.

Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).

Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.

Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.

Trong quá trình diễn ra lễ, người dân đến kính viếng, xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà… để về làm ăn.

Và đến năm 2005, lễ hội Vía Bà (lễ hội vía bà Chúa Xứ) được Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.

Nguồn dẫn: Chiêu Lingg (Sưu tầm từ nhiều nguồn)/ Việt Nam Ơi